Chuyên viên pháp lý Nguyễn Hoàng Anh Thư trả lời câu hỏi của anh dựa trên ý kiến tham vấn của Luật sư Phan Thu Thảo như sau:
Nội dung câu hỏi: Tôi (25 tuổi) và người yêu (23 tuổi) từng sống chung, hiện bạn ấy đang mang thai con chung được 04 tháng. Sống chung với nhau khoảng 03 năm tôi mới biết người kia đã có chồng hiện đang ly thân, chưa ly hôn. Khi biết tin tôi đã dọn ra ngoài sống riêng. Như vậy tôi và người yêu có vi phạm pháp luật hay không? Nếu có thì bị xử lý như thế nào?
Cơ sở pháp lý: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ), Thông tư liên tịch số: 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp – Bộ Công an – Toà án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Thông tư liên tịch 01/2001/ TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC)
Quan hệ giữa anh và người yêu là “sống thử”, sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, đồng thời sẽ không được pháp luật công nhận quan hệ vợ chồng do chưa đăng ký kết hôn theo quy định Luật HNGĐ.
Trong quan hệ hôn nhân, một trong những hành vi bị cấm là: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ” (theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ năm 2014). Theo đó, quan hệ hôn nhân vi phạm quy định trên được xem là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
“Chung sống như vợ chồng” được giải thích theo các quy định sau:
– Căn cứ khoản 7 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng” .
– Căn cứ Mục 3.1 Thông tư liên tịch số: 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC cụ thể như sau:“Chung sống như vợ chồng người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…”
Theo các quy định nêu trên, có thể thấy việc anh và người yêu cùng chung sống, sinh hoạt và có con chung được xem là chung sống như vợ chồng. Tuy nhiên, dựa vào những thông tin mà anh cung cấp, anh sẽ không vi phạm pháp luật do anh là người độc thân chung sống với người yêu nhưng không biết người yêu mình đang có chồng và ngay khi biết điều này thì anh không tiếp tục chung sống nữa.
Đối với người yêu của anh có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng với là người đang có chồng, chưa ly hôn nhưng lại che giấu để chung sống như vợ chồng với anh. Cụ thể các hình thức xử lý như sau:
– Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng:
“Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
…
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
…”
– Truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”
Trên đây là giải đáp đối với câu hỏi của anh, mong rằng phần tư vấn trên có thể giúp anh giải đáp được thắc mắc của mình. Nếu anh có bất cứ thắc mắc nào, vui lòng liên hệ theo Hotline: 0917.333.769 hoặc đến văn phòng của chúng tôi tại địa chỉ: 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc 1/8a Quang Trung, thị trấn Hóc Môn, Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh để được Luật sư của chúng tôi hỗ trợ trực tiếp.