Luật sư Phan Thu Thảo xin được trả lời câu hỏi của chị như sau:

Nội dung câu hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn năm 2020, sau đó chúng tôi có mua nhà đất và đã được cấp GCN đứng tên hai vợ chồng. Đến năm 2022, chồng tôi bị tai nạn bị chấn thương não, hiện nay không nhận thức được gì. Do chi phí chạy chữa bệnh cho chồng rất cao nên kinh tế gia đình kiệt quệ nên tôi muốn bán nhà đất. Luật sư cho tôi hỏi giờ chồng bị vậy thì tôi có tự bán được không?

Cơ sở pháp lý: Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS), Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật Hôn nhân và Gia đình)

Theo thông tin chị cung cấp thì nhà đất mà hai vợ chồng chị được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và đây được xem là tài sản chung của vợ chồng căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình:

“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

…”

Căn cứ Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung như sau:

“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.

2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

a) Bất động sản;

b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.”

Theo đó, khi chuyển nhượng (bán) tài sản chung cần phải có sự thống nhất, đồng ý của cả hai vợ chồng; cùng thực hiện ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng và các văn bản khác có liên quan.

Hiện nay, theo thông tin bạn cung cấp thì chồng của chị hiện bị mất nhận thức, không làm chủ được hành vi thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS về Mất năng lực hành vi dân sự: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

.

Tại Điều 376 BLTTDS quy định Quyền yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự:

1. Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.

…”                       

Theo đó, Trường hợp này với tư cách là người có quyền, lợi ích liên quan, chị cần làm đơn yêu cầu tuyên bố chồng mình mất năng lực hành vi dân sự, kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ chứng minh tình trạng bệnh của chồng (giấy xác nhận của bệnh viện…) đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được xem xét giải quyết.

Sau khi Tòa án tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự bằng một Quyết định thì chị sẽ là người giám hộ đương nhiên của chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 53 BLDS: “Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ” và việc giám hộ đương nhiên phải được đăng ký tại UBND cấp xã nơi cư trú của chị hoặc của chồng chị (nếu nơi cư trú khác nhau).

Việc giám hộ được giám sát bởi người giám sát việc giám hộ. Cụ thể Điều 51 BLHS quy định giám sát việc giám hộ như sau:

“1. Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ.

Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ.

2. Trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc những người thân thích không cử, chọn được người giám sát việc giám hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân giám sát việc giám hộ. Trường hợp có tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định.

3. Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát.

4. Người giám sát việc giám hộ có quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ;

b) Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 của Bộ luật này;

c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ.”

Do đó, người thân thích theo quy định nêu trên thỏa thuận về việc cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích và trường hợp của bạn thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong trường hợp không cử, chọn được người giám sát việc giám hộ thì UBND cấp xã cử cá nhân hoặc pháp nhân giám sát việc giám hộ.

Căn cứ khoản 1 Điều 58 BLDS quy định về quyền của người giám hộ như sau:

“1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các quyền sau đây:

a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;

b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;

c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.

Tại khoản 1 Điều 59 BLDS quy định Quản lý tài sản của người được giám hộ như sau:

“1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.

Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

…”

Như vậy, trong trường hợp chị có nhu cầu bán tài sản chung của vợ chồng thì mục đích của việc bán tài sản phải được sử dụng để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu, vì lợi ích của người được giám hộ là chồng chị. Đồng thời, việc bán tài sản nêu trên phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

Trên đây là giải đáp đối với câu hỏi của chị dựa trên thông tin được cung cấp, mong rằng phần tư vấn trên có thể giúp chị giải đáp được thắc mắc của mình. Nếu có mong muốn được tư vấn chi tiết hơn, chị có thể liên hệ để gặp luật sư theo các phương thức sau đây:

Hotline: 0917.333.769 hoặc đến văn phòng của chúng tôi tại địa chỉ: 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc 1/8A Quang Trung, thị trấn Hóc Môn, Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

0917 333 769